KÉO DÀI THỜI GIAN BẢO QUẢN TRÁI BƠ (Persea americana) BẰNG BAO MÀNG PHỨC HỢP CHITOSAN-SODIUM TRIPOLYPHOSPHATE

Main Article Content

NGUYỄN ĐỨC VƯỢNG
LÊ THỊ HỒNG TRANG
LÊ THỊ NHỊ
ĐINH THỊ HỒNG NHUNG
TRẦN THỊ DIỄM PHƯƠNG
NGUYỄN HUỲNH ĐÌNH THUẤN

Tóm tắt

Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của việc bao màng chitosan (CH) ở các nồng độ khác nhau, kết hợp 0,01% sodium tripolyphosphate (TPP) đến chất lượng trái bơ booth. Trái bơ booth được nhúng trong nước ấm (~55°C) trong 30 giây, rồi được nhúng trong dung dịch axit axetic 1% (mẫu đối chứng), CH 2, 2,5, và 3% kết hợp TPP 0,01% trong 1 phút. Sau khi được để khô tự nhiên, các mẫu được nhúng lần 2 trong 10 giây. Mẫu được để khô tự nhiên, và được bảo quản ở 10±2°C. Kết quả cho thấy, tỷ lệ CO2 sinh ra của mẫu đối chứng đạt cực đại ở ngày 11, trong khi của các mẫu bơ được bao màng bởi 2, 2,5, 3% chitosan đạt tương ứng ở các ngày 17, 21, và 19. Kết quả tương tự được quan sát thấy ở tỷ lệ ethylen sinh ra ở các ngày bảo quản tương ứng. Tại đỉnh hô hấp, tỷ lệ hao hụt khối lượng của mẫu đối chứng khoảng 20%; cao hơn 3-5 lần so với tỷ lệ này ở các mẫu bơ được bao màng bởi dung dịch CH 2, 2,5, 3% (tương ứng khoảng 6,6, 3,8, và 4%). Đồng thời, hao hụt hàm lượng vitamin C thấp nhất ghi nhận được trong mẫu bơ bao màng bởi CH 2,5%. Dung dịch CH 2,5% và TPP 0,01% thể hiện khả năng phù hợp bảo quản trái bơ.

Article Details

Chuyên mục
Hóa học, Sinh học, Thực phẩm, Môi trường