TÍCH HỢP PHƯƠNG TRÌNH MẤT ĐẤT PHỔ DỤNG CẢI TIẾN (RUSLE) VÀ HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐỊA LÝ (GIS) ĐỂ ƯỚC LƯỢNG XÓI MÕN ĐẤT TIỀM NĂNG TẠI LƯU VỰC SÔNG BÉ, VIỆT NAM
Main Article Content
Tóm tắt
Xói mòn đất do nước là một nguyên nhân hàng đầu gây ra suy thoái đất ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tích hợp Phương trình mất đất phổ biến cải tiến (RUSLE) và Hệ thống thông tin địa lý (GIS) để ước tính lượng mất đất tiềm năng hàng năm do xói mòn. Nghiên cứu được thực hiện tại lưu vực Sông Bé, nằm ở vùng Đông nam bộ của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy xói mòn đất tiềm năng trong lưu vực Sông Bé phân bố không đều, khu vực phía nam của lưu vực có lượng đất bị mất thấp hơn khu vực từ trung tâm đến phía bắc của lưu vực. Tổng lƣợng mất đất của lưu vực Sông Bé là 157.198,5 tấn mỗi năm. Lượng đất mất ít hơn 1.000 tấn / ha / năm chiếm diện tích lớn nhất là 47.475 ha (chiếm 55,81% diện tích lƣu vực) tập trung ở khu vực phía nam và phía tây của lưu vực, loại đất chính ở khu vực này là đất Phù sa chua (FLd) và đất Nâu đỏ trên đá bazan (FRr). Có 17.366 ha (20,41% diện tích lưu vực) thiệt hại về đất là từ 1.000 đến 2.000 tấn / ha / năm. Phân bố gần như trên lưu vực, đất Xám Ferralic (ACf) là loại đất chính ở đây. Lượng đất mất từ 2.000 đến 5.000 tấn đất / ha / năm vào khoảng 17.483 ha (chiếm 20,55% diện tích lưu vực) nằm rải rác từ khu vực trung tâm đến phía bắc của lưu vực. Các loại đất chính trong nhóm này là Đất Xám Ferralic (ACf), đất Đá bọt điển hình (AN) và đất Nâu vàng (LX). Lượng đất thiệt hại hơn 5.000 tấn / ha / năm chiếm diện tích khá nhỏ (2.739 ha), phân bố ở phía bắc lưu vực, nơi có hệ số xói mòn lượng mưa (R) và hệ số xói mòn đất (K) rất cao.